Thứ Bảy, 15 tháng 6, 2013

MĂNG ĐEN KÝ SỰ

Khu biệt thự Măng Đen (từ internet)
                                             Lê Văn Lợi
        Ngồi sau tay lái một thầy giáo, nhưng thuộc hàng đệ nhất đẳng lái xe, xuôi quốc lộ 24 từ Kon Tum trực chỉ Măng Đen (huyện Kon Plong, Kon Tum).
Ra khỏi thành phố chừng 15km, điểm gây ấn tượng đầu tiên là là Nhà thờ giáo xứ Kon Xơmluh, thuộc thôn Kon Xơmluh, xã Dak Tơre, huyện Kon Rẫy.  Nhà thờ mới khánh thành vào ngày 06.12.2011, rất nguy nga, vững chãi, toạ lạc trên một ngọn đồi thoáng đãng, được phỏng theo mô-típ nhà sàn dân tộc Tây Nguyên. Đẹp, nhưng không ăn nhập với cảnh quan. Cái vẻ lộng lẫy của nó càng làm nổi bật cái nghèo khó, lam lũ của những chiếc nhà sàn nhỏ bé, xộc xệch ở chung quanh. Anh “thầy lái xe” chỉ cho dừng lại chừng mươi phút, đủ “chộp” mấy kiểu ảnh, lại tiếp tục hành trình.

Thứ Hai, 10 tháng 6, 2013

KHOẢNG TRỜI CỦA BA

                                                 Thủy Linh Lung
Nước mắt rơi nhòe khoảng trời nơi khung cửa sổ, nó lặng lẽ bó gối thẫn thờ nhìn chòng chọc vào khoảng không đang bị đốt cháy bởi giậu Dâm Bụt đỏ nhức. Dù đã viên mãn, nhưng nước mắt vẫn lăn dài trên đôi gò má nó cho đến khi thiếp vào giấc ngủ. Trong giấc mơ bé con là khoảng trời hạnh phúc bừng sắc hoa, và niềm vui trên từng nét mặt, nụ cười thân thương.
Dấu vết cựu thời đã nhốt khát khao của ba vào ảo mộng về những chuyến bay. Những chuyến bay qua nẻo đất mới, những chuyến bay mở ra vùng trời mới. Mỗi lần trở về, trên khuôn mặt những người đồng nghiệp của ba là vẻ mệt nhoài bởi thiếu ngủ. Còn ba luôn ôm chầm, công kênh nó lên vai, để nó hít cái mùi mồ hôi khô trên chiếc áo phồng lên trong gió của ba. Ba say sưa kể về những khoảng trời, những vùng đất ba đi qua trước ánh mắt thèm thuồng của nó.

Chùm thơ Chợ đời của Vi Ánh Ngọc

Chợ đời
Chợ đời bán gió mua trăng
ta đem bán những thăng trầm thời gian
chợ đời đoạn khúc quan san
ta chưa mua nổi hành trang cuộc đời.

Chợ đời giông tố muôn nơi
mua đi bán lại cả trời bán buôn
chợ đời nắng cháy mưa tuôn
chênh vênh đứng lặng giữa nguồn suối thơ.

Chợ đời cho đến bây giờ
vẫn vần thơ cũ bơ phờ ngóng trông
chợ đời một khối tơ lòng
ta nghe nặng trĩu những dòng tương tư.

NGUỒN GỐC CỦA TẾT THANH MINH

(THANH MINH TIẾT KHỞI NGUYÊN - 清 明 節 起 源)
                                                                                   Võ Minh Hải
Tết Thanh minh (Thanh minh tiết - 清明節)là ngày lễ rất quan trọng trong văn hoá dân gian, là một trong tám ngày lễ tiết quan trọng theo phong tục Trung Hoa (中華) như: Thượng nguyên 上元 hay còn gọi là Nguyên tiêu 元宵, Thanh minh 清明, Lập hạ 立夏, Đoan ngọ 端午, Trung nguyên 中元, Trung thu 中秋, Đông chí 冬至 và Trừ tịch 除夕.
Thời đoạn của tiết Thanh minh có thế rất dài, trước ngày mồng 5 tháng Tư âm lịch 10 ngày và kéo dài sau đó 8 này (có thuyết nói là 10 ngày). Trong khoảng thời gian gần 20 ngày đó được xem là thuộc vào tiết Thanh minh. Về nguồn gốc của lễ tết này, căn cứ theo truyền thuyết khởi thuỷ bắt nguồn từ lễ Mộ tế 墓祭 của các bậc đế vương thời cổ, về sau dân gian cũng phỏng theo tục ấy. Vào ngày này, người ta thường quét dọn, cúng tế mộ phần của tổ tiên ông bà, từ đó đã hình thành một phong tục đẹp của người Trung Quốc. Tết Thanh minh 清明và Xuân tiết 春節, Đoan ngọ 端午, Trung Thu 中秋 còn được gọi là 04 đại lễ tiết truyền thống của người Hoa. Từ năm 2008, tết Thanh minh đã được nhà nước Trung Quốc công nhận là quốc lễ và toàn dân được nghỉ lễ.

Chùm thơ Chiều mưa của Lê Văn Lợi

KHÔNG ĐỀ
Bắc thang lên hỏi ông trời
Ai xui em đẹp cho tôi dại khờ
Cho nhiều thêm những giấc mơ
Cho dài nỗi nhớ, cho vơ vẩn lòng?



MƯA Ở QUÊ NHÀ 
                     Cho BH 
Hiên ngoài gió lọt song thưa,
Đêm nằm thiếu phụ nghe mưa, ngóng chồng,
Phương xa lòng những thầm mong
Trời nghiêng cho nước đổ dồn về ta.
                     Hà Nội, mạnh thu 2010

NGUỒN GỐC CỦA NGÀY TẾT ĐOAN NGỌ

(ĐOAN NGỌ TIẾT ĐÍCH KHỞI NGUYÊN - 端午節的起源)
                                                                                             Võ Minh Hải
Về nguồn gốc của tết Đoan ngọ端午節, từ trước đến nay đã tồn tại nhiều cách lý giải khác nhau. Từ cuối thời Đông Hán 東漢末年, người ta đã tìm thấy những thư tịch sưu tầm về tết Đoan ngọ, các học giả thời đó cho rằng nguồn gốc của lễ tiết này có liên quan đến sự tưởng niệm thi hào nổi tiếng của nước Sở 楚國- danh nhân văn hoá Khuất Nguyên 屈原. 
Khuất Nguyên, tên là Bình 平sinh vào khoảng năm 280 TCN, là vương công, đại quý tộc của nước Sở. Ông là người có tài năng xuất chúng, “xuất khẩu thành chương, thạo việc giấy tờ” (Tư Mã Thiên) và vô cùng ái quốc. Năm 25 tuổi, ông đã đảm nhận chức vụ Tả đồ 左徒, một cương vị trọng yếu trong bộ máy cai trị, chỉ thấp hơn Tể tướng 宰相 một bậc. Do sớm thành đạt nên Khuất Nguyên đã bị người đời ganh ghét, đố kỵ ngay cả vương phi của vua Sở Hoài Vương 楚懷王 là nàng Trịnh Tụ 鄭袖 cũng tỏ thái độ bất mãn đối với ông. Đương thời, Sở vương là kẻ bất tài, vô đạo, chỉ biết hưởng lạc. Điều đó khiến cho Khuất Nguyên vô cùng lo lắng, ông muốn cải tổ nền chính trị quốc gia, chủ trường liên hợp với các nước khác để ngăn chặn sự ảnh hưởng của nước Tần秦國. Hoài Vương lúc đầu rất tín nhiệm Khuất Nguyên, nhưng về sau vì nghe lời xúc siểm của bọn gian thần, hầu cận nên ngày càng không tin vào những lời khuyên trung thành của Khuất Bình. Vào lúc ấy, cả ba nước Tần 秦, Tề 齊và Sở楚 đều nổi lên tranh bá, giành lấy sự ảnh hưởng đối với các nước nhỏ ở phía Tây, Đông và Nam. Quan viên của nước Sở đã hình thành 02 phái: Thân Tần 親秦 và Thân Tề 親齊. Để thực hiện âm mưu ly gián của mình, nước Tần đã phái Trương Nghi 張儀, một biện sĩ nổi tiếng đến thương thuyết với vua Sở, nước Tần tình nguyện cắt 600 dặm đất tặng cho Sở và yêu cầu nước Sở phải ly khai với Tề, phá bỏ hội ước trước đây của hai nước. Quả nhiên, vua Sở đã trúng kế và tuyên bố tuyệt giao với Tề. Thế nhưng, đến khi nhận đất thì Trương Nghi đã lật lọng nói là chỉ tặng có 06 dặm. Hoài vương tức giận và hạ lệnh phái binh đánh Tần, nhưng bị bại binh ở đất Đan Dương 丹陽 và buộc phải cắt đất bồi thường chiến phí cho Tần.

Ngày hôm nay... ta lướt qua nhau như chưa từng quen biết!

                               Thủy Linh Lung
Đã bao lâu rồi, em cũng không biết nữa, em chỉ biết mình đã quên anh thật rồi thì phải. Từ tận trong tâm can, trong trái tim em, hình ảnh về anh đã nhạt nhoà lắm. Bố bảo em là kẻ vô tâm khi cần, quả là em như thế thật. Thế nhưng sao hôm nay ta lại gặp nhau...
Lặng lẽ gói gém tất cả, lặng lẽ đợi chờ, em đã từng hy vọng anh sẽ chỉ gửi một cái tin hỏi em thế nào? thế nhưng chỉ là ảo vọng. Em đã đợi chờ anh níu kéo, dù em là người cố tình gạt bỏ đi tất cả, thế nhưng ... Em cũng yếu lòng lắm chứ... Và chúng ta mất nhau như thế. Đừng khóc, đừng buồn anh nhé, em biết anh cũng yếu đuối nhưng khi mối quan hệ của chúng ta đã trở nên vô vị và nhạt nhẽo, khi bên anh có quá nhiều người để sẻ chia, để thay em quan tâm anh thì không có một lý do nào cho em ở lại nữa anh nhỉ. Em ra đi không phải vì em yếu đuối, không phải vì em không yêu anh nữa. Em ra đi vì em thấy giờ đây trong mắt anh em không còn quan trọng nữa. Đôi khi em có cảm giác mình bị bỏ rơi, em đã khóc thật nhiều nhưng rồi cũng chỉ mình em với căn phòng giá lạnh.

Chùm thơ Nhân tình của Thủy Linh Lung

NHÂN TÌNH
Ngày thơ bé, bà thường kể cổ tích con nghe,
Bà bảo nhân tình cái ác là người thiện.
Đời chông gai con vấp té,
Mẹ dạy con nhân tình của từ bỏ là miền tin.
Con khóc, tim mình tan chảy,
Cha dạy con tìm tình nhân trong tiếng cười hạnh phúc.
Và giờ đây... khi một mình cô độc,
Con học bài tìm nhân tình bản thân.
Khi... nằm xuống con sẽ là nhân tình của thiên thu.

LỄ HỘI VU LAN KHỞI NGUYÊN VÀ Ý NGHĨA VĂN HÓA

                                                                                        Võ Minh Hải
1. Khởi nguyên của lễ Vu lan
Lễ hội Vu-lan bồn (hay Vu-lan bồn hội 盂蘭盆會,Vu-lan tiết 盂蘭節) là một khái niệm của khu vực Phật giáo Hán ngữ, khởi nguyên có từ trong kinh tạng của Phật giáo. Hai chữ Vu-lan 盂蘭 được chuyển dịch tắt từ chữ Ullambana trong tiếng Phạn, được người Trung Quốc phiên âm là 烏藍婆孥, người Việt căn cứ theo mặt chữ, đọc cụm từ này theo âm Hán-Việt là Ô lam bà noa; hàm nghĩa của cụm từ này là hiếu thuận, cúng dường, báo ân, cứu đảo huyền, giải thoát sự thống khổ. Danh từ Ullambana có gốc động từ Ud-vlamb, nghĩa là “treo (ngược) lên”. Do đó, các nhà ngôn ngữ Trung Quốc đã dịch thành “đảo huyền 倒懸” và gia tăng thêm hàm nghĩa “cứu đảo huyền chi khổ 救倒懸之苦”, tức là cứu nỗi khổ đau bị sa đọa trong địa ngục. Từ Bồn 盆 là chữ Hán, có nghĩa là cái chậu, đồ dùng để chứa đựng.

MẮT PHỐ

                                Thủy Linh Lung
Tôi gọi nơi ấy là đôi mắt của thành phố. Nơi người cũ bỏ rơi những vũ khúc tình si, để hồn ai xa vợi những nỗi lòng khắc khoải đợi mong. Tôi thấy mình chưa đủ lớn để hiểu thấy nhân tình thế thái đa đoan, nhưng tôi hiểu được một phần của mối rối tơ lòng. Từ nơi ấy, đã bao lần tôi ngắm nhìn thành phố tôi khoách những sắc áo khác nhau. Khi chim vào lặng lẽ, ảo mờ của những ngày mù mưa bụi, khi lại chấp chớn trắng những bọt sóng trắng mùa, ngày nắng biếc cả thành phố soi mình vào khung trời lơ lửng thuở Đường thi. Thi nhân làm nên tên ngọn đồi hay chính ngọn đồi đã là một thi nhân rồi đấy.

Chủ Nhật, 9 tháng 6, 2013

BIỂN HỒ

                                        Lê Văn Lợi
Chui ra khỏi chiếc xe buýt tuyến Kon Tum – Pleiku vừa dừng lại, đón ngay những hạt mưa lây phây rơi nhẹ lên người. Mát. Dễ chịu. 8 giờ, mặt trời lười biếng còn ngủ nướng nên bức màn mây xam xám vẫn phủ kín, che chở muôn loài.
Đôi mắt Pleiku đến! Ngồi lên xe, nổ máy. Chưa đầy mươi phút, sau khi qua khỏi con đường ngắn rợp bóng thông xanh, một cảnh sơn thủy hữu tình hiện ngay trước mắt: Biển Hồ. Đôi mắt Pleiku chớp chớp mấy cái hỏi có vẻ thách thức: Đẹp chưa? Đành gượng gạo chống chế: Ừ, đẹp. Sở dĩ như vậy, vì trước đây mình hay trêu, chỉ có Quy Nhơn là nhất, còn Giai Lai “chẳng là cái đinh gì”. Mang nỗi ấm ức trong lòng, lần này Đôi mắt Pleiku quyết chí “trả thù” bằng cách cho mình tận mục sở thị “đệ nhất đẳng cảnh quan” phố núi. Dù trong đầu còn đầy ắp óc địa phương chủ nghĩa, không muốn chịu thua Đôi mắt Pleiku, nhưng vẫn phải thốt lên: Đẹp thật! Một cái đẹp không hùng vĩ kiểu thác Đrây Sáp (Dăk Nông), không kiêu sa như Eo Gió (Quy Nhơn), cũng chẳng thướt tha, kiều diễm như Hương giang (Huế); mà đẹp lặng lẽ như đôi mắt buồn sơn nữ.

Chùm thơ Gia đình của Vi Ánh Ngọc

Cổ tích của bà
Tuổi thơ bập bẹ năm mười
ê a tiếng khóc bên lời bà ru
nương quê khói bếp sương mù
đong đưa tiếng võng nắng thu hoen màu.


Ngày xưa cổ tích từng câu
trong veo bà kể… còn đâu bây giờ
chiều nay gió lặng như tờ
con về tìm lại bến bờ thời gian.


Ai đem cổ tích giăng tràn
nấm mồ thấm đất… nghe hàng dương reo.

LỆ PHONG LINH

                                                   Thủy Linh Lung
Những người yêu nhau rồi sẽ trở về cạnh nhau như những con sóng dù phiêu du nơi đâu thì cuối cùng cũng sẽ trở về với bờ cát trắng mà thôi. Chỉ là hãy đợi chờ, hãy tin tưởng
Lớn lên trong tình yêu đong đầy của mẹ bé luôn vu vơ hỏi “ba đâu hả mẹ? sao ba không về với con thế? Có phải vì ba không thương con nữa?”… Những lúc ấy mẹ lại ôm bé vào lòng thủ thỉ rằng một ngày kia ba sẽ trở về với hai mẹ con, và cứ thế bé đợi chờ và hy vọng vào một ngày kia… một ngày kia của tương lai…
Khi bé học cấp hai, bé đọc truyện chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng và bé đã khóc bao lần, trong lòng bé lại thổn thức một hoài vọng được gọi một tiếng ba thân thương… khi nào… khi nào bé sẽ được thốt lên tiếng gọi ấy? Bé ngắm những ngôi sao trên bầu trời và vẽ một khuôn mặt đã mờ nhoà trong kí ức…

Chùm thơ Biển của Phạm Tuấn Vũ

BIỂN HÁT
Chiều nghiêng sóng hát rì rào
Có cô bé nọ nhìn vào biển xanh
Mắt tròn như ngọc long lanh
Xô bờ con sóng khẽ thành lời ca
Cát mềm nâng gót hồng hoa
Có miền cổ tích đi qua dấu hài
Nắng vàng đậu xuống bờ vai
Gió hòa sóng khẽ hát bài du dương
- Này cô bé, chớ buồn vương
Bên em là cả trời thương biển chiều...

VỀ CHỮ NHÂN 仁 TRONG TƯ TƯỞNG CỦA KHỔNG TỬ

                                                                                             Võ Minh Hải
Khổng Tử 孔 子 tên Khâu 丘, tự là Trọng Ni 仲 尼, sinh ngày 1 tháng 11 năm Canh Tuất 庚 戌 (551 TTL) đời Chu Linh Vương 周 靈 王 năm thứ 21 và Lỗ Tương Công 魯 襄 公 năm thứ 22 tại ấp Tu, làng Xương Bình, huyện Khúc Phụ, nước Lỗ (thuộc phía nam tỉnh Sơn Đông – Trung Quốc). Những chi tiết kỹ càng hơn cả về đời sống của ngài là tiểu sử được chép trong quyển XLVII bộ Sử ký 史 記 của Tư Mã Thiên 司 馬 遷.
Khổng tử là người sáng lập ra đạo Nho mà giới nghiên cứu tư tưởng phương Tây gọi là phái Khổng học. Ông là danh sư có ảnh hưởng rất lớn và – điều này mới là điều trọng yếu và duy nhất – là nhà giáo lập trường tư đầu tiên trong lịch sử trung Quốc. Bình sinh, Khổng tử luôn nêu cao tư tưởng Nhân nghĩa, đặc biệt là đức Nhân. Đó là hạt nhân nòng cốt, là con đường đưa ông trở về với nhân bản, với tinh thần nhân văn sâu sắc của văn hoá Trung Hoa, một đặc điểm xuyên suốt trong hệ thống tư tưởng và đó cũng là một yếu tố khẳng định sự trường cửu của tư tưởng Khổng tử qua hàng ngàn năm tồn tại và phát triển.

Tình ca tháng bảy mưa ngâu

                                Thủy Linh Lung
“Khi bạn hát một bản tình ca là bạn đang muốn hát về cuộc tình của mình. Hãy hát đi đừng e ngại, dù hạnh phúc hay dở dang thì cuộc tình ấy cũng là máu thịt của bạn rồi…”
                               (Trịnh Công Sơn)
-         Cái gì không có tuổi? Là trời nè, đất nè, còn gì nữa không ba nhỉ ?
Hồi nhỏ con thường quẩn quanh trong những câu hỏi ngốc nghếch như thế, tự đặt ra những ngõ rối cho mình và cho ba nữa... Cái gì không tuổi? Để rồi con lại ngủ khì trong vòng tay rắn chắc của ba tự lúc nào. Trong giấc mơ con vẫn ướt những giọt lệ buồn…
Mẹ sinh con ra vào tháng bảy, cái tháng mưa Ngâu vân vũ giữa trời. Mưa cười như nụ cười thỏa nguyện cuối cùng của mẹ, mưa nhòa đi những giọt nước mắt của ba, và mưa nuôi con lớn dần với điệu vũ của những mùa lặng lẽ qua. Mưa ngâu chỉ là truyền thuyết nhưng sao cứ mãi vận vào tháng bảy thế nhỉ? Mưa ngâu làm rầu đất trời, héo úa lòng người… nhưng lại cho đời một tháng tám trong veo, tinh khôi đến lạ.

NHỮNG KỶ NIỆM NGÀY ĐẦU GIẢI PHÓNG

                                      Lê Văn Lợi
Khoảng gần trưa ngày 29-3-1975, một cột khói đen ngòm cất lên trụ sở Ủy ban hành chính quận Phù Cát kèm theo một tiếng nổ long trời. Máy bay của chế độ Sài Gòn ném bom phá hủy trụ sở quận sau khi chính quyền tháo chạy.
Lúc đó, tôi đang học lớp 7 trường Trung học Phù Cát (nay là THPT Phù Cát I). Cũng nên kể một chút những hiểu biết về cách mạng của một bộ phận thanh, thiếu niên hồi ấy. Lúc bấy giờ, những thanh thiếu niên sống ở vùng do chế độ Sài Gòn kiểm soát, ngoài con em gia đình cách mạng, còn lại đều hiểu “Việt cộng” qua lăng kính bộ máy tuyên truyền của chế độ Sài Gòn. Với tôi, “Việt cộng” là những người hiếu chiến, chỉ biết chém giết; là những người sống trên rừng, thiếu ăn, gầy gò, “bảy thằng Việt cộng đeo trên tàu đu đủ không gãy” v.v… Vì vậy, trong những ngày tháng 3 (1975) tin thất bại của quân đội Sài Gòn từ Buôn Ma Thuột, Đà Nẵng… dội về, cùng với những lời đồn đoán theo kiểu “Việt cộng về đây sẽ xảy ra cuộc tắm máu”, “Việt cộng sẽ xỏ xâu những người nào có dính líu đến chế độ Sài Gòn ném xuống biển”, “ ai để móng tay dài sẽ bị họ dùng kiềm rút hết”… làm tôi hoang mang cực độ, dù mình không thuộc đối tượng nào trong số đó. Còn suy nghĩ, bao nhiêu năm học hành vứt hết (hồi ấy ở quê tôi những người học đến lớp 7 không nhiều), vì Việt cộng đâu cần chữ nghĩa.

Chùm thơ Tình của Vi Ánh Ngọc

Thơ tình viết cho em
Duyên làm chi trong mắt kẻ tình si
ta chết lịm
đắm đuối lòng mong nhớ
chở trang thơ đi dọc chiều vu vơ
trào dâng mạch nguồn
rung động trái yêu thương.

Thơ tình ta lấp lửng giữa đường
như gãy gánh như bồng bềnh ẩn hiện
trôi vào miền hoang dại
nhào nặn thành rạo rực
thầm thì nhịp tim yêu
đánh thức hồn trinh say đắm dáng yêu kiều.

Tháng năm bằng lăng

                                                                              Phạm Tuấn Vũ
Tháng năm vào rồi đó. Con đường nào không có bằng lăng. Hoa dịu dàng một khoảng trời riêng. Hoa rợp mát một con đường nhỏ. Hoa rải đầy hè phố chiều về nhẹ gót chân em.  
Bằng lăng nở vừa lúc hè sang. Không ồn ào như trăm hoa đua nở mùa xuân, không hối hả như phượng vỹ thắp lửa mùa hạ nồng đượm, bằng lăng lặng lẽ xuất hiện cuối bản hoan ca giao mùa như một nốt trầm lặng lẽ. Không rực rỡ, kiêu kỳ, cũng chưa từng cao sang, đài cát, hoa chọn cho mình một sắc rất riêng. Âm thầm tím biếc một màu. Thương nhau nên cứ trước sau chung tình. Người ta nói hoa buồn là vậy. 

Mùa ổi lên hương

                               Thủy Linh Lung
Có những mùa đến, mùa đi bất chợt để trong ai những bâng khuâng, cứ như một con nắng không đốt được một góc trời nhưng góp nhặt làm nên cả một mùa nắng ải. Từng ngày, từng ngày ta vẫn mong một bàn tay đưa ta về chốn rêu phong cũ để thấy mình được sống đúng nghĩa với trái tim.
Lối mòn đã cũ sao ta lại tìm về, để đánh rơi miền đất hứa mà ta đã đuổi đeo cả một đời. Ta trở về với trái tim giá lạnh sau một cuộc tình đã qua, sau những thi vị của trái ngọt là chát chúa của thứ mủ thấm dần trong ta… Có lẽ vì ta chưa sẵn sàng quên…

VĂN HOÁ HÔN NHÂN NHÌN TỪ GÓC ĐỘ TỪ NGUYÊN HỌC VĂN HOÁ

                                                                                     Võ Minh Hải
Theo Lễ kinh 禮經, hôn nhân là một trong 04 nghi lễ quan trọng của đời người. Đó là Quan, Hôn, Tang, Tế. Quán 冠 là lễ gia quan (đội mũ), biểu thị sự trưởng thành của nam nhân, bởi lẽ ngày xưa con trai hai mươi tuổi thì phải làm lễ đội mũ. Vì thế, theo Thiều Chửu trong Hán Việt tự điển, con trai trong hai mươi tuổi còn gọi là nhược quan 弱冠.Hôn 婚 (tức nghi lễ thành gia lập thất, duy trì lễ pháp tông đường), Tang 喪 là nghi lễ kết thúc chu trình vòng đời một con người và Tế 祭 là nghi lễ tôn thiên kính địa, lễ bái tiền nhân, tổ tiên của dòng họ, đây là một sự việc cực kỳ trọng đại và liên quan trực tiếp đến đời sống tâm linh của con người. Trong chu trình của một đời người, 04 nghi lễ này đánh dấu sự trưởng thành của con người xã hội. Trong bài viết này, chúng tôi chỉ tìm hiểu và lý giải nguồn gốc nghi lễ thứ hai của hai từ góc độ từ nguyên văn hoá.

Nhật ký ngày đẹp trời

                                       Lê Văn Lợi
Sau bao bộn bề công việc, tạm rảnh. Tự thưởng cho mình một giấc ngủ không canh giờ báo thức. Nhưng lũ chim trời hùa với đám chim nuôi nhà hàng xóm thi nhau phá đám: hót lảnh lót chào ngày mới. Dậy thôi. Ở phố mà được đánh thức bởi tiếng chim cũng hay nhỉ? Đó là điều mà thằng AQ trong ta, nhà nơi chân núi, hay "nổ" với đám bạn bè có nhà mặt tiền ở những khu trung tâm thành phố.
   Hôm nay trời đẹp thật. Ông trời già nhầm lẫn chăng? Sao lại lạnh vào dịp xuân hè ở cái đất Quy Nhơn này? 8 giờ rồi mà mặt trời còn luẩn quất trong mây, uể oải dọi những tia nắng nhợt nhạt như tiết cuối đông. Cầm chiếc áo lạnh định mặc ra phố, lại thôi. Dễ gì có cái se lạnh vào thời điểm này. Biết đâu ngày mai ông trời tỉnh tảo lại trả Quy Nhơn về đúng cái thời tiết vốn có như mọi năm: nóng! Hãy thưởng thức, dại gì lãng phí thứ “của hiếm” này. Bỗng quay quắt với câu thơ Huy Cận:
      “Trời không nắng cũng không mưa
       Chỉ hiu hiu rét cho vừa nhớ nhung”

Đợi chờ một ngày sẽ thu

                                       Thủy Linh Lung
Hãy để cho đời những dư âm thi vị!
Thu về giữa mắt phố thênh thang, màu áo thu sao buồn thảm thê quá. Bản forever autumn của Lake of tears với tiếng ghitar acoustic sắc lạnh đã đánh đắm cả lòng em trong đời vội vã. Cái buồn man mác như mặc cả với mùa để đong đầy mắt biếc. Thu mang dư vị sập soài của nắng mưa bất chợt, để thấy lòng mình cũng bộn bề nghĩ suy rối rắm. Phố đông người qua nhưng mấy ai biết thu đã về, bởi họ đã có quá nhiều bận rộn, lo toan cho cuộc sống này. Với những con người ngóng mùa như em thì không cần đến cây cơm nguội vàng, cây bàng đốt đỏ mới là thu, thu như kẻ định cư trong mùa, cứ như nắng mùa đã tắt nhưng lúc nào cũng len lỏi được đến người. Thu buồn có biết không nhỉ!

BIỂU TƯỢNG TRÚC VÀ THI NHÂN

                                                                                          Võ Minh Hải
                                                                  Kính tặng thầy Lê Văn Lợi
          Từ xưa đến nay, màu xanh thẫm của những rừng trúc đã khiến cho không biết bao nhiêu văn nhân, thi sĩ hết lời ca tụng. Thơ phú từ khúc viết về trúc có thể nói là vô số, không thể lượng tả được. Cổ nhân quan niệm: “Ninh khả thực vô nhục, bất khả cư vô trúc. Vô nhục sử nhân sấu, vô trúc sử nhân tục寧可食無肉不可居無竹. 無肉使人瘦無竹使人俗” (Có thể ăn mà không cần có thịt nhưng không thể sống mà không có trúc, không có thịt thì chỉ khiến cho người ốm đi, không có trúc khiến cho người trở nên bình thường). Câu nói trên đã khẳng định nhã thú thanh cao thoát tục của văn nhân sĩ đại phu thời trước.
          Trịnh Bản Kiều 鄭板橋 đời Thanh 清代 là người cả đời chỉ vẽ trúc và làm thơ về trúc (vịnh trúc hoạ trúc 詠竹畫竹) và đã để lại khá nhiều hảo thủ giai cú (好首佳句) viết về trúc, trong bài thơ Trúc thạch 竹石, ông viết:
Giảo định thanh sơn bất phóng tùng,
Lập căn nguyên tại phá nham trung.
Cán ma vạn kích hoàn kiên kính,
Nhậm nhĩ đông tây nam bắc phong
咬定青山不放鬆,
立根原在破岩中.
幹磨萬擊還堅勁,
任爾東西南北風”

LAN MAN HẠ VỀ

                                               Lê Văn Lợi
Lấn bấn mãi với những việc không tên, hôm nay mới có một buổi nghỉ trưa mà không liếc xéo đồng hồ. Bất chợt một tia nắng chiếu trực diện xuyên qua cửa. Nắng không vàng, không dịu, không kèm theo cơn gió nồm mát lịm mang hơi nước từ biển thổi vào như dạo mới xuân. Nắng gắt. Cây chiêu liêu trước cửa dồn hết sức bình sinh lên ngọn, nhưng lá vẫn ỉu xìu. Đích thị mùa hạ đã về.
Mang tiếng là ở phố, nhưng nhà tôi nằm dưới chân đồi, đủ không gian và điều kiện để cảm nhận một buổi trưa mùa hạ đầy chất thôn quê giữa chốn thị thành. Có tiếng gà trưa, tiếng cu gáy rền rĩ xa xăm, tiếng chào mào lảnh lót… Tự dưng, mấy câu thơ thời trung học bật lên trong “bộ nhớ” :
  Một buổi trưa không biết ở thời nào,
  Như buổi trưa nhè nhẹ trong ca dao,
  Có cu gáy, có bướm vàng nữa chứ,  (Huy Cận)

Chùm thơ Rong chơi của Vi Ánh Ngọc

Vin vào giấc mơ con
Vin vào giấc mơ con
nồi bánh canh của bà
khói bếp đưa hương
ngan ngát xóm quê nghèo mùa bão lũ
đôi mắt cay ròng thức đủ những sớm hôm.

Khi trời chưa vỡ trái bình minh
bên sương lạnh
mẹ giăng mình bắt con tép con tôm
lam lũ một đời
đôi tay sờn ngai ngái mùi bùn non.

CƠ HỘI

                                Thủy Linh Lung
       Quý tặng thầy Võ Minh Hải
-         Lau nước mắt đi!
Chiếc khăn mùi soa trắng đặt gọn trong tay nó.
-         Tôi không cần ai thương hại hết. Để tôi yên!
Nó hét lên rồi quay lưng bỏ chạy. Nó thấy tủi thân hơn khi người khác thương hại mình. Ngồi bệt xuống bậc tam cấp nhìn ra khu vườn trường đầy màu sắc tươi vui của hoa, của bướm nó thấy sao mọi thứ lố lăng thế, vô duyên thế… chỉ là bởi tâm trạng nó đang rối bời chăng?
-         Khóc lóc thì mọi thứ sẽ được giải quyết à?
Vẫn giọng lạnh lùng ấy:
-         Kệ tôi…
-         Vậy thì bạn chỉ đang tồn tại chứ bạn không hề sống. Nếu khóc mà giải quyết được vấn đề thì bạn cứ khóc đi.
Phong để nó một mình với chiếc khăn tay.

Ngẫu nhiên

                                       Võ Minh Hải dịch
偶然
我是天空里的一片雲
偶爾投影在你的波心
你不必訝异
更旡須歡喜
在轉瞬間消滅了蹤影
你我相逢在黑夜的海上
你有你的,我有我的,方向
你記得也好
最好你忘掉
在這交會時互放的光亮
中華民國 – 1926
徐志摩

NGÀY CỦA NHỮNG HẸN HÒ

                               Thủy Linh Lung
-         Con nhóc này càng lớn càng giống mẹ!
Họ hàng ai cũng nói thế, nhưng chỉ có ba là người luôn im lặng, đôi mắt lúc nào cũng nhìn xa xăm như tìm về chốn kí ức mờ nhòa để thấy một nụ cười, một ánh mắt thân yêu.
Chủ nhật, ngồi bó gối ở nhà trong miên man những nghĩ suy. Điện thoại sáng, là tin nhắn của thằng bạn thân với cái mặt cười to sụ choáng hết cả màn hình: Bom…bom…hom nay la mot ngay dac biet nhe ay! Ngay cua nhung hen ho do. Chuc ay lun zui ze va hanh phuc… . NGÀY CỦA NHỮNG HẸN HÒ! Chưa bao giờ trong đời tôi nghĩ là sẽ có một ngày như thế. Nhìn từ ban công xuống nắng đã hắt lên những tia nắng ửng hồng trên những tàng cây xanh lá. Nhìn xuống đường những cặp đôi hạnh phúc đi bên nhau bẽn lẽn ngại ngùng. Những chiếc bóng lê thê dài trong nắng sớm...

Hồn quê

Tác phẩm: Hồn quê - Tác giả: Vi Ánh Ngọc

Chùm thơ Cho em của Phạm Tuấn Vũ

CHO EM
Xuân này không được gặp em
Biết có quà gì cho em nhỉ
Cánh thư tay
Hai mươi năm xưa thời cha mẹ yêu nhau lãng mạn
Bây giờ lại cất cánh bay
Về em
Như mẹ cha vẫn trao nhau ngày trước…

Xuân này không được gặp em
Cây mai trước nhà anh không buồn vặt lá
Cửa sổ phòng anh chiều nay lạnh quá
Thư này anh gửi về em…

CHẾ ĐỘ THẾ TẬP VÀ NGUYÊN LAI CÁC TÊN GỌI THƯỜNG DÙNG CHO HOÀNG ĐẾ VÀ HOÀNG TỘC

                                                                                    Võ Minh Hải
1. Vài nét về chế độ thế tập trong lịch sử Trung Hoa
          Chế độ quân chủ của ba triều đại Hạ 夏, Thương 商 và Chu 周 sau khi vua lên ngôi đều xưng Vương 王. TrongGiáp cốt văn  甲骨文, chữ Vương được viết theo hình thể của chữ 大, với ý nghĩa tượng trưng cho tư thế của một người ngồi ngay thẳng, chính diện ở đại điện. Đến nhà Thương, vua Tổ Giáp 祖甲 đã tự nhận mình là vua của một nước. Địa vị đáng tôn sùng ấy cần phải có mũ miện. Vì thế, trong Giáp cốt văn, chữ Vương có thêm một nét ngang trên đầu và nó trở thành tự dạng như chữ Ngọc 玉. Điều này chứng minh rằng, biện pháp chính trị nào của thời quân chủ chuyên chế cổ đại cũng đều hướng đến việc củng cố và tôn sùng Vương vị 王位. Ông vua là chủ tể của quốc gia, là đại biểu cho tất cả quý tộc chủ nô. Đấy là đặc trưng chủ yếu đầu tiên của chính thể chuyên chế Hạ, Thương, Chu.

KÝ ỨC VỀ NHỮNG CHIẾC "ĐỒNG HỒ"

                                       Lê Văn Lợi
 Xưa. Cũng không xưa lắm, mới những năm 70 của thế kỷ trước thôi, nghĩa là khi nhân loại đã bước vào kỷ nguyên tự động hóa. Nhưng ở một làng quê, với lũ trẻ chúng tôi, đồng hồ chỉ là một thứ ước mơ không bao giờ có được. Còn nhớ hồi ấy “chuẩn” để đánh giá sự sang trọng là đồng hồ, bút máy và radio.
            Khổ nỗi làm bất cứ việc gì cũng cần phải biết thời gian. Lũ trẻ chúng tôi được người lớn truyền dạy ( một cách rất tự nhiên) cách xác định thời gian bằng những chiếc “đồng hồ” không bao giờ bị hỏng, không mất tiền và nói bằng ngôn ngữ ngày nay là “rất thân thiện với môi trường”.
            Đo bóng mình dưới nắng
            Rủ nhau đi học, thế nào cũng có đứa hỏi: “mấy bước rồi ?” (lẽ ra phải hỏi “mấy giờ rồi”). Ấy là vì chúng tôi xác định thời gian bằng cách đo xem cái bóng của mình đổ trên mặt đất dài được mấy bàn chân (chiều dài mỗi bàn chân là một bước). Tùy theo mùa, cái bóng ấy dài độ hai, ba bước, đến lớp là vừa. Đang chơi đùa vui vẻ, thỉnh thoảng có đứa chạy ra giữa trời đứng ngay ngắn rồi đếm bước, đó là những đứa biết lo xa, sợ trễ giờ đi học.

Chùm thơ Hạnh phúc là gì? của Võ Minh Hải

Em đi ngang đời tôi!
Hình bóng cũng qua thời gian như xiềng xích
Vồ vập, bấu rít và xiết chặt từng hơi thở
Tôi đã lặng đi và không muốn nhớ nữa…
Một dĩ vãng buồn và một đời lặng lẽ.

Em đi ngang đời tôi như một người mang lửa
Ngọn lửa thiêng đã soi thấu tận chân tơ kẽ tóc
Tận đáy lòng đã hoang lạnh sau những phong ba
Vẫn đấy! Vẫn đấy! Người gieo mầm sống cho ta.

Trái tim yêu thương

                                    Thủy Linh Lung
-         Con yêu ba con để ở đâu?
-         Ở đây nè ba! Cô bé hồn nhiên đặt tay lên ngực.
-         Tại sao con để đó!
-         Vì mẹ bảo ba và mẹ cất tình yêu ở đó mà, con cũng thế! Nụ cười lém lỉnh hồn nhiên trong nắng tinh khôi và trong trẻo. Ba ôm bé vào lòng hôn lên gò trán cao bướng bỉnh thì thầm gì rồi nhìn xa xăm vào những hạt nắng lấp lánh lần tìm về miền viễn miên của thuở xa xưa ấy …
-          Chị!... Chị đồng ý lấy em nhé.
Tôi nhìn thẳng vào đôi mắt hoài buồn của chị, bàn tay chị ấm nóng trong tay tôi, trái tim tôi bỗng ngừng những nhịp đập rộn rã, chỉ còn lại những khoảng trống lặng của sự hồi hộp đợi chờ.