Thứ Sáu, 7 tháng 6, 2013

TẾT TRUNG THU VÀ Ý NGHĨA VĂN HOÁ

                                                                                  Nguyễn Thị Lan Anh
1. Nguồn gốc của lễ Trung Thu
Tết Trung thu khởi nguyên từ Trung Quốc, là một lễ hội dân gian truyền thống ở khu vực Đông Á được tổ chức vào ngày 15 tháng 8 âm lịch hàng năm. Tết Trung thu không chỉ là ngày tết cổ truyền của người Trung Hoa mà còn là lễ hội truyền thống của các nước ảnh hưởng văn hoá Trung Hoa như Nhật Bản, Việt Nam, Bán đảo Triều Tiên và nhiều nơi khác.
Theo nông lịch 农历 của người Trung Quốc, tháng 8 được gọi là Thu quý 秋季 và là tháng thứ hai của mùa thu, thời cổ được gọi là Trọng thu 仲秋, trong dân gian thường gọi là Trung thu 中秋. Ngoài ra, lễ tiết này còn có những tên gọi khác như Thu tịch 秋夕, Bát nguyệt tiết 八月节, Bát nguyệt bán 八月半, Nguyệt tịch 月夕, Nguyệt tiết 月节. Vào ngày này, trăng tròn và viên mãn nhất, đó cũng chính là biểu tượng của sự đoàn viên 团圆 do đó còn được gọi là Đoàn viên tiết 团圆节 … Về chữ tết mà chúng ta sử dụng trong cụm từ tết Trung thu là cách đọc chệch âm từ tiết 节 trong từ tiết khí 节气.
Xét từ góc độ từ nguyên, hai chữ Trung thu được tìm thấy sớm nhất trong Chu Lễ 周礼[1], Lễ ký 礼记. Thiên Nguyệt lệnh 月令 của bộ Lễ ký có ghi: “Thị nguyệt dã, dưỡng suy lão, thụ kỷ trượng, hành mi chúc ẩm thực 是 月 也. 養衰 老. 授 几 杖. 行 麋 粥 飲 食 (vào tháng này, nuôi dưỡng người già yếu, cho gậy chống, ghế ngồi, đồ ăn thức uống), nhưng không chỉ rõ vào ngày nào trong tháng 8. Sau thời Đường tết Trung thu được ấn định vào một ngày cố định. Truyền thuyết còn lưu lại câu chuyện Đường Huyền Tông 唐玄 (685-782) trong ngày Trung thu được lên cung Quảng Hàn 廣寒 và sáng tác nên Nghê thường vũ y khúc 霓裳羽衣曲[2]. Bên cạnh đó, truyền thuyết cũng cho rằng, ngày 15-8 là sinh nhật vua Đường Huyền Tông nên hình thành tục treo đèn kết hoa. Lễ hội Trung thu bắt đầu phổ biến vào đời Tống 宋朝. Năm 1276, quân Mông Cổ 蒙古chiếm Lâm An 臨安, kinh đô nhà Nam Tống 南宋. Niên hiệu Chí Nguyên 至元 thứ 16 (1279), Mông Cổ tiêu diệt toàn bộ tàn quân của Tống, chính thức đặt sự cai trị trên toàn lãnh thổ Trung Quốc với một chính sách cực kỳ tàn bạo và hà khắc. Đến cuộc khởi nghĩa của Chu Nguyên Chương 朱元璋 (1328 - 1398), mưu sĩ Lưu Bá Ôn 劉伯溫 đã khôn khéo dùng bánh Trung thu để truyền mật lệnh "giết người Mông Cổ vào ngày 15 của tháng thứ 8”. Năm Hồng Vũ 洪武 thứ nhất (năm 1368), cuộc khởi nghĩa do Chu Nguyên Chương lãnh đạo đã giải phóng đất nước Trung Quốc khỏi giặc ách thống trị của ngoại tộc Mông Cổ. Từ đó hàng năm, đến dịp Trung thu Minh Thái Tổ 明太祖 (tức Chu Nguyên Chương) đã ban bánh ngọt cho quần thần. Việc làm này vừa có ý nghĩa chúc mừng ngày tết, vừa có ý nghĩa ôn lại những khó khăn thuở còn hàn vi của cuộc khỏi nghĩa. Từ thời Minh Thanh   trở đi, tết Trung thu trở thành một lễ hội lớn của Trung Quốc.
Ở Trung Quốc và một số nước, hàng năm cứ vào mùa Trung thu, các cụ già thường kể cho con cháu nghe câu chuyện Thường Nga bôn nguyệt 嫦娥奔月 Thường Nga hay còn gọi là Hằng Nga 恆娥. Có rất nhiều dị bản về câu chuyện cổ này nhưng dị bản sau được chấp nhận và phù hợp hơn với tâm thức dân gian hơn cả. Chàng Hậu Nghệ 后羿 dũng cảm đã trèo lên đỉnh Côn Lôn bắn mặt trời cứu dương gian và được Vương Mẫu nương nương 王母娘娘 ban cho thuốc trường sinh bất tử. Một lần chàng rời nhà đi săn, Hằng Nga đã bị Bàng Mông - một kẻ tâm thuật bất chính ép phải giao thuốc trường sinh. Vì không muốn viên thuốc rơi vào tay kẻ bất nhân, Hằng Nga đã uống viên thuốc và nàng trở thành một tiên tử bay lên cung trăng. Hậu Nghệ trở về nhớ thương Hằng Nga nhìn lên mặt trăng thấy thấp thoáng có bóng  giai nhân. Chàng bèn cho người bày những đồ Hằng Nga thích ăn dưới trăng, cùng uống rượu ngắm trăng. Về sau mọi người theo đó mà bày hương án dưới ánh trăng, cầu xin Hằng Nga ban cho may mắn và bình an.
2. Lễ hội Trung thu và những biểu tượng văn hoá
2.1. Bóng trăng – Hình ảnh đoàn viên
Trong đời sống hàng ngày, mặt trăng luôn gần gũi và thân thuộc với mỗi chúng ta. Trong kho tàng truyền thuyết của nhân loại có rất nhiều câu chuyện hay về mặt trăng và những nhân vật xung quanh nó. Theo người Trung Hoa, vệt đen trên mặt trăng có người cho đó là hình của Ngọc thố 玉兔 đang giã thuốc cùng nàng Thường Nga 嫦 娥, có truyền thuyết cho rằng đó là cái bóng của chàng Ngô Cương 吳僵 vì muốn thành tiên mà ngày ngày đốn cây Đan Quế 丹桂. Đối với người dân Việt Nam thì đó chính là hình ảnh của “Chú Cuội ngồi gốc cây đa, để trâu ăn lúa gọi cha ời ời…” và vẫn hàng  ngày nhìn ngắm dương gian trong tâm trạng đầy tiếc nuối.
Hình ảnh mặt trăng tròn đầy, viên mãn ấy không chỉ thể hiện ước vọng đoàn viên mà còn là ước nguyện về một sự ấm no, hài hoà, sung túc của con người. Thỏ ngọc giã thuốc tiên, cây Đan Quế thần kỳ và những con người cụ thể như Hằng Nga, Ngô Cương, hay chú Cuội, xét đến cùng đó cũng chính là những nhân vật đã mang ước vọng siêu nhiên, chinh phục tự nhiên mà con người luôn mơ ước.
2.2. Ngắm trăng, cúng trăng – Một phong tục cao nhã
Trên thực tế thì Trung thu có từ hơn 2000 năm trước, một số dân tộc thiểu số của Trung Hoa đã có tục mùa xuân tế nhật, mùa thu tế nguyệt, hay còn gọi là lễ Tế nguyệt (cúng trăng). Vào mỗi đêm rằm tháng tám mọi người cùng nhau du ngoạn phố phường và đối ẩm dưới trăng gọi là thưởng nguyệt 赏月. Vào ngày này những đứa trẻ luôn háo hức với những mâm cỗ, những chiếc lồng đèn xanh đỏ, những con Kỳ Lân sặc sỡ mang lại may mắn. Trung thu còn được gọi là “khánh đoàn viên” 慶团圆 bởi Trung thu như một lí do để mọi người dừng mọi công việc của mình trở về tìm cảm giác ấm cúng của gia đình. Mọi người cùng nhau ăn bánh Trung thu, thưởng trà gọi là viên nguyệt 圆月, và thường đi dạo trên những con phố tấp nập, rực rỡ đèn hoa gọi là tẩu nguyệt 走月. Một dị bản về câu chuyện Thường Nga bôn nguyệt 嫦娥奔月cho rằng Trung thu là ngày duy nhất trong năm chàng Hậu Nghệ được lên cung Quảng Hàn thăm vợ tương tự như câu chuyện Ngưu Lang 牛郎 và Chức Nữ 織女vậy. Bên cạnh đó, mùa thu còn là mùa của những hứng cảm, kẻ thi nhân lững thững phiêu du qua những miền miên viễn của kí ức nhân loại để tìm lại chính mình.
Sách Lễ kí đã ghi lại rằng: “thu mộ tịch nguyệt 秋暮夕月” là ý muốn nói đến việc thờ Nguyệt thần 月神, tức là vào thời điểm này người ta thường chuẩn bị hương án, tổ chức lễ tế trăng và đón mùa lạnh sắp đến. Đến thời kỳ Đường Tống, phong tục thưởng nguyệt ngày càng trở nên thịnh hành. Thơ ca viết về phong tục này cũng nhiều, nổi bật nhất có thể kể đến là bài Mộc lan hoa mạn trung thu 木蘭花慢中秋 của Tân Khí Tật 辛棄疾, bài Thuỷ điệu ca đầu 水調歌頭 của Đông Pha cư sĩ 東坡居士 Tô Thức 蘇軾. Trong cuốn Đông kinh mộng hoa lục 東京夢華彔 có ghi như sau: “Trung thu dạ, quý gia kết sức đài tại, dân gian tranh chiếm tửu lâu ngoạn nguyệt 中秋夜貴家結飾台榭, 民間爭占酒樓玩月” (đêm trung thu, nhà giàu thì treo đèn kết hoa trên đài cao, dân gian thì tranh nhau chiếm lấy chổ ở tửu lâu để mà ngắm trăng).
2.3. Bánh Trung thu – Món quà đầy ý nghĩa
Người Trung Quốc có câu tục ngữ: “Bát nguyệt thập ngũ nguyệt chính viên, Trung thu nguyệt bính hương hựu điềm 八 月 十 五 月 正 圆,中 秋 月 饼 香 又 甜” (Ngày 15 tháng Tám trăng tròn viên mãn, bánh trung thu vừa thơm lại vừa ngọt). Hai chữ Nguyệt bính 月餅 có lai nguyên từ trong cuốn Mộng lương lục 夢梁彔 của nhà thơ Ngô Tự Mục 吳自牧 thời Nam Tống 南宋.
        Trước kia, bánh Trung thu, còn gọi là Nguyệt bính 月饼 chỉ là một thức điểm tâm, đến thời Bắc Tống 北宋 (960-1127), bánh này được gọi là “cung bính” 宮餅 (bánh của cung đình), chỉ dùng trong cung điện và lan truyền đến dân gian nên nó còn được gọi là Nguyệt đoàn 月团, ngụ ý đoàn tụ tốt đẹp. Từ đó về sau, bánh Trung thu trở nên phổ biến, là món ăn, quà tặng và còn là lễ vật không thể thiếu trong lễ cúng trăng, thổ địa công vào mỗi dịp tết Trung thu. Bánh tròn tượng trưng cho đất, trên mặt bánh là hình ảnh của một mặt trăng tròn trịa đủ đầy soi xuống cõi trần, chiếc bánh đem lại không khí ấm cúng của sự đoàn tụ đồng thời giúp ta kí thác bao nghĩ suy về cuộc đời. Ngày nay, bánh trung thu cũng chính là món quà tặng nhau trong ngày tết đoàn viên của gia đình, món quà bày tỏ tình cảm quý mến của tình bằng hữu keo sơn gắn bó.
Nhìn từ góc độ văn hoá, lễ hội Trung thu được tổ chức ở mỗi nước cũng có những nét khu biệt nhưng niềm tin về sự viên mãn, đoàn viên và sung túc luôn là những ý niệm văn hoá thường trực trong tâm thức con người Á Đông. Ngày hội Trung thu mãi mãi là một mĩ tục mang những nét văn hoá độc đáo. Và có thể nói Trung thu là ngày hội của tất cả mọi người. Một mùa Trung thu nữa lại đến, người người lại tấp nập chuẩn bị đón một lễ đoàn viên ấm cúng và hạnh phúc.
                                                             Mùa Trung Thu Tân Mão, 2011    
                                                                                           N.T.L.A
Chú thích:
[1]  Do Chu Công Đán (周公旦) trước tác, 476 TCN
[2] Nghê (霓) là cầu vồng. Thường (裳) là xiêm, để che phần hạ thân của người; Nghê thường: có nghĩa là xiêm cắt bằng lụa năm màu; Vũ y (羽衣) là áo dệt bằng lông chim, hay có nghĩa là kiểu áo theo hình cánh chim hay còn gọi là cánh tiên; Nghê thường vũ y: có thể hiểu theo nghĩa hẹp là những vũ nữ mặc áo theo hình cánh chim, còn quần thì bằng lụa ngũ sắc.